Tuesday, January 27, 2015

Lời Kinh đêm



 

Bé gái Philippines khiến Giáo hoàng xúc động bỏ diễn văn chuẩn bị sẵn


Câu hỏi xúc động của một bé gái Philippines hôm 18/1 về việc vì sao Chúa lại để nhiều bé gái bị ép làm gái bán dâm đã khiến giáo hoàng Francis xúc động, từ bỏ bài diễn văn chuẩn bị sẵn để kêu gọi thế giới cần nâng cao hơn nữa lòng trắc ẩn.


Giáo hoàng Francis ôm bé gái Palomar khóc nức nở sau khi đặt câu hỏi lay động lòng người (Ảnh: 

Giáo hoàng Francis ôm bé gái Palomar khóc nức nở sau khi đặt câu hỏi lay động lòng người (Ảnh:  AFP )



Glyzelle Palomar, 12 tuổi, từng là trẻ em vô gia cư trước khi được một tổ chức từ thiện của nhà thờ đón về nuôi, đã đưa ra câu hỏi gây xúc động nêu trên trong một buổi lễ diễn ra tại một trường đại học Công giáo ở Manila, dưới sự chủ trì của Giáo hoàng.

“Rất nhiều trẻ em bị bố mẹ từ bỏ. Nhiều trẻ em bị dính líu đến ma túy và mại dâm”, Palomar nói với Giáo hoàng Francis khi đứng trên sân khấu cùng một bé trai 14 tuổi khác, người cũng từng là trẻ vô gia cư. “Tại sao Chúa lại để những điều đó xảy ra với chúng con? Trẻ em không có lỗi gì cả”.

Sau câu hỏi này cô bé bật khóc và liên tục lau nước mắt, khiến người đứng đầu của tòa thánh Vatican phải ôm chặt cô bé vào trong vài giây. Sau đó Giáo hoàng Francis đã từ bỏ hầu hết bài diễn văn bằng tiếng Anh chuẩn bị sẵn của mình, để phát biểu bằng tiếng Tây Ban Nha với một thông điệp khẩn khoản và lay động lòng người.

“Cô bé là người duy nhất đã đưa ra một câu hỏi mà hiện không có câu trả lời và cô bé thậm chí không thể biểu hiện nó bằng lời nói mà chỉ bằng nước mắt”, Giáo hoàng nói với đám đông tham dự sự kiện. “Vấn đề cốt lõi trong câu hỏi của con…hầu như không có câu trả lời”.  
Giáo hoàng Francis, hiện đang ở Philippines trong chuyến thăm kéo dài 5 ngày, kêu gọi những người có mặt trước hết cần học khóc với những người bị đẩy ra lề xã hội, những người chịu đau khổ. Giáo hoàng cho rằng lòng trắc ẩn hình thức, vốn dẫn tới việc chỉ ban phát những của bố thí, được thấy ở nhiều nơi trên thế giới là không đủ.
“Nếu Chúa chỉ có lòng trắc ẩn kiểu vậy, người có lẽ chỉ đi ngang qua, chào hỏi 3 người, cho họ thứ gì đó và tiếp tục đi”, Giáo hoàng nói, và kêu gọi tất cả hãy cho thấy sự quan tâm thực chất, thiết thực dành cho người nghèo và những người bị đẩy ra rìa xã hội.
“Có những thực tế trong cuộc sống, chúng ta chỉ có thể nhìn thấy trong những đôi mắt đã được làm trong sáng bằng nước mắt”, Giáo hoàng nỏi, và hối thúc mọi người “hãy nghĩ, cảm nhận và hành động”, đồng thời đề nghị đám đông cùng lặp lại những lời này.
Giáo hoàng cũng đề nghị mọi người học theo Thánh Francis, người mà giáo hoàng chọn lấy pháp danh. “Ngài đã chết với đôi bàn tay trắng, với những chiếc túi rỗng nhưng với một trái tim đầy ắp yêu thương”.
Thanh Tùng
Theo  AFP
 


Friday, January 23, 2015


    CHOUX À LA CRÈME
    BÁNH SU KEM   .






Phần vỏ bánh
120ml nước lạnh
50g bơ
65gbột mì
2 trứng
3 soup đường tí muối
1/2 muỗng cafe bột nở
Phần nhân
200ml sửa
40g đường
2 lòng đỏ
2 soup bột năng
5g bơ
Tí muối
5g bột mì
 

Cách làm :
- làm sôi đường , bơ, muối xong cho bột vô khuấy . chờ bột hơi nguội cho từng cái trứng vô đánh
- Vân lấy túi bắt bông kem nặn bánh. Nướng 190 độ 30 p
Phần nhân :cho hết hỗn hợp lên bếp nấu cho đến khi đặc lại
Bánh chín để nguội, Vân khoét đích bánh. Cho nhân vào túi bắt bông kem nặn vô thân bánh từ đích bánh .
(Em dựa theo trang Savourydays làm 2 lần hư đủ 2 lần. Vì thiếu bột nở phần vỏ bánh và thiếu bột mì phần nhân bánh.)


Vân Trần

Wednesday, January 21, 2015

Một chuyện tình đẹp, cảm động thời chinh chiến

Dẫu lìa ngó ý…
Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng
(Truyện Kiều - Nguyễn Du) 
 
Hương-Thủy
 
                Nhà thơ ngụ ngôn người Pháp La Fontaine đã nói một câu rất hay về tình bạn: “Tình yêu thật sự đã hiếm; tình bạn thật sự còn hiếm hơn”.  Tình bạn giữa tôi và Cát Đằng quả là hiếm có.
 
                Cát Đằng, tên một loài hoa leo có màu xanh pha tím, mỏng mảnh. Bạn tôi cũng dịu dàng, mềm mại, quý phái như hoa.
 
                Chúng tôi thân nhau từ thuở nhỏ, lúc còn học trường tiểu học Đoàn Thị Điểm trong Thành Nội. Hai đứa cứ thế lớn dần lên, lần lượt qua bên kia sông Hương học Đồng Khánh rồi Văn Khoa…
 
                Nhà Cát Đằng nằm ở một góc nhỏ trên đường Mai Thúc Loan. Căn nhà cổ xưa như cuộc sống quan cách của gia đình. Ba Cát Đằng làm công chức cao cấp của Ty Ngân khố Thành phố. Ông đặt cho con những cái tên thật đẹp của các loài hoa: Cát Đằng, Đỗ Quyên, Hoàng Lan…Mấy chị em sống khép kín như những con ốc trong bốn bức tường rêu.
 
Tôi, tên bình thường: An Nhiên, gia cảnh cũng “thường thường bậc trung”, tóc cắt kiểu Demi Garcon, tính tình đôi lúc ương bướng. Vậy mà chúng tôi thương nhau vô cùng. Chỉ có tôi dám bước qua hai cánh cổng sắt luôn khép kín trong tiếng sủa của con Berger để rủ Cát Đằng đi học. Cũng chỉ có tôi chiếm được lòng tin của ba mạ Cát Đằng. Hai bác nghiêm nghị nhưng coi tôi như con. Hình như hai bác xem tôi là một lá chắn bảo vệ cho cô con gái yếu ớt của mình.
 
Chúng tôi đã có một thời thơ ấu thật đẹp và hồn nhiên. Những chiều mùa hạ dắt nhau vô con đường  bên hông Đại Nội gần cà phê mụ Tôn, nhặt bông phượng đỏ  về làm bướm. Những sáng mùa đông sương mù lạnh buốt chở nhau qua cầu Phú Xuân, gió hung hăng như muốn quật hai đứa xuống sông. Những đêm cùng học bài thi, em gái Đỗ Quyên đem vào phòng cho hai chị chén chè hạt sen long nhãn mát rượi. Mạ Cát Đằng thường cười bảo tôi “Phải chi An Nhiên là con trai, bác gả Cát Đằng cho cháu.”
 
Tuổi dậy thì hồn nhiên và mơ mộng. Cát Đằng đẹp, nhiều người tán. Tan học về bao nhiêu cái đuôi theo, mãi cho đến cửa Hiển Nhơn  mới chịu lui gót. Tôi như garde corps cho bạn. Những chàng sinh viên mê Cát Đằng, nhờ tôi làm chim xanh kèm theo nhiều món quà hậu hĩnh, trong số có cả con của một ông Trưởng Ty đang theo học trường Y. Nhưng tôi từ chối. Không ai hiểu bạn hơn tôi. Cát Đằng tâm sự: “Sao mình thấy ông nào cũng nhẵn nhụi như Mã Giám Sinh. Ngó phát ớn!”. Người hùng trong tâm tưởng Cát Đằng phải bụi bụi như tài tử Charles Bronson, đêu đểu với bộ ria giống nụ cười của Clark Gable  hoặc chí ít cũng phải lãng tử như Gregogy Peck trên chiếc Vespa cổ chở nàng công chúa Audrey Hepburn  chạy khắp thành Rome trong Vacances Romaines…  Thâm tâm tôi thấy bạn mình quá lãng mạn. Biết tìm đâu ra người lý tưởng trong môi trường phố thị này?
 
Ấy thế mà một hôm thật bất ngờ, “người hùng” của bạn đã xuất hiện.  Đó là một buổi sáng “đầy sương thu và gió lạnh” như trong văn Thanh Tịnh, đoàn Sinh Viên Sỹ Quan trường VBQGVN về Huế vào Đại Học Văn Khoa tuyển quân. Phải công nhận sự có mặt của họ như một hiện tượng trong sân trường xưa nay toàn áo dài, chemise, quần tây. Trong trang phục worsted thật đẹp, thật hào hùng mặt anh  nào cũng sáng láng thông minh. Họ trình bày thật ấn tượng về ngôi trường quân sự  ở Đà Lạt ngang ngửa với Saint Cyr của Pháp, West Point của Mỹ. Đứng bên những chàng trai Văn Khoa “trói gà không chặt”, trông các anh cao to và đường đường khí thế. Nhìn qua cạnh mình, tôi thấy Cát Đằng như trên mây. Nàng say sưa dán mắt vào  anh SVSQ đang giới thiệu chương trình đào tạo. Anh nói giọng Bắc pha chút Huế. Khi chàng ta đi từng bàn phát những tờ ảnh về ngôi trường cho sinh viên nam, Cát Đằng cũng nhoài người qua xin một tờ. Một thoáng ngạc nhiên trong mắt anh nhưng người SVSQ vẫn lịch sự trao tận tay nàng. Mắt hai người gặp nhau. Một cái gì đó thật lạ lần đầu tiên tôi thấy xuất hiện ở cô bạn mình. Má nàng ửng hồng, ánh mắt long lanh, môi mọng ướt mềm…Chuông reo giờ ra chơi, hai người còn trao đổi với nhau suốt cả mười lăm phút bên hành lang Morin.
 
Ra về, tôi bảo Cát Đằng  “ Mình thấy hình như có Coup de Foudre”. Nàng yên lặng do dự một chút rồi bảo tôi: - “An Nhiên ơi, bạn có thương mình không?”. Tôi ngạc nhiên: - “Tui không thương bạn thì thương ai?”  - “Vậy thì chiều ni bạn xin mạ cho tui qua chơi nhà bạn hí - Được thôi mà”
 
Buổi chiều, tôi ngồi chờ bạn trên chiếc xích đu dưới giàn bông giấy. Nàng xuất hiện trong chiếc áo mousseline màu xanh trứng sáo, quần tây đen. Trông Cát Đằng xinh xắn làm sao. Hèn gì con ông Trưởng Ty mê nàng như điếu đổ. Ngồi nói chuyện với tôi mà mắt nàng nhìn ra cổng như ngóng trông ai…Và bốn giờ chiều. Một bóng người xuất hiện trước  cửa. Anh chàng Sinh viên Võ bị hồi sáng…Cô nàng thông minh thật, lấy địa chỉ nhà tôi làm nơi gặp gỡ.
 
Tôi không tin lắm vào duyên tiền định. Xưa nay, ba mạ vẫn hay nói tôi là kẻ cứng lòng. Nhưng với cô bạn thân Cát Đằng thì tôi nghĩ đó là một mối nhân duyên mà tôi là người góp phần dung túng, ủng hộ. Cô bạn tôi không phải là type người “ yêu cuồng sống vội”. Xưa nay nàng chưa hề cười với ai một nụ. Con nhà gia thế, kín cổng cao tường. Điều gì đã làm cho nàng dám vượt qua khuôn phép gia đình và xứ Huế vốn dễ tiếng tăm?
 
Chàng sinh viên sỹ quan ấy tên H. đang theo học năm thứ ba trường Võ bị. Anh gốc Bắc, di cư vào Nam năm 54, chọn Huế làm quê hương thứ hai. Anh sống cùng mẹ và chị gái bên Bến Ngự. Anh hơn chúng tôi năm tuổi, trước đây từng học MPC rồi mới quyết định tòng quân. Đợt tuyển quân này là một cơ hội cho anh về thăm mẹ và số phận đưa đẩy để hai người gặp nhau.
 
Anh H. hiền, tính điềm đạm. Tôi chắc bạn tôi không chọn nhầm. Hai người có một tuần để hiểu nhau. Tôi nhiều lần qua nhà Cát Đằng xin cho bạn đi học nhóm, đi thảo luận… để rồi sau đó chở nàng lên đồi Thiên An, chùa Từ Hiếu hẹn hò. Trong khi hai người trò chuyện, tôi lặng lẽ đi dạo dưới những hàng thông hoặc ngồi đọc sách bên hồ Thủy Tiên để rồi sung sướng ngắm nhìn bạn sáng ngời trong hạnh phúc. Tình yêu làm người ta đẹp ra. Anh H. đưa chúng tôi về thăm gia đình. Căn nhà nhỏ nép mình trong một khu vườn sum suê cây trái.Tiếng chim sâu kêu lách chách. Bà mẹ hiền lành mừng rỡ đón bạn của con; người chị gái tên Hương thương em vô hạn, chăm anh từng ly từng tý. Tôi mừng cho Cát Đằng.
 
Anh H. trở về Đà Lạt tiếp tục khóa huấn luyện. Nhà tôi trở thành địa chỉ cho hai người trao đổi thư từ. Những bức thư đều đặn hàng tuần. Cát Đằng có một cái hộp bánh CHOCOLATE hình chữ nhật.Đọc xong thư  bạn cất vào đó và nhờ tôi giữ hộ. Cuộc tình vẫn nằm trong bí mật với gia đình và bạn bè. Không ai biết ngoài tôi.
 
Gần cuối năm 1971, sau khi đọc xong lá thư có cái insigne rồng vàng ôm kiếm thiêng, Cát Đằng có vẻ suy tư. Bạn ngồi trầm ngâm trên chiếc xích đu trắng  nhìn mông lung. Tôi mở lời: “Răng đó? Giận nhau hả?”. –“Không, có chi mô”. Lần này, bạn cầm lá thư về chắc để đêm nghiền ngẩm.
 
Con đường đến giảng đường sáng hôm sau như dài ra với sự yên lặng của Cát Đằng. Giờ English Grammar bạn dường như không nghe lời thầy John Schaffer giảng. Lúc ra chơi, đứng ở khung cửa sổ nhìn xuống đường Lê Lợi, Cát Đằng đưa bức thư cho tôi: “An Nhiên đọc đi!”.Tôi liếc nhanh qua bức thư với những lời yêu thương nồng thắm nhớ nhung chất ngất, hơi đỏ mặt vì thấy mình xâm phạm chuyện riêng tư của bạn. A, đây rồi. Cái lý do làm bạn tôi trăn trở hai ngày nay. Anh H. muốn bạn tôi có mặt trong đêm Lễ trao nhẫn  truyền thống của  SVSQ  năm 3 trường Võ Bị. Là răng? Cát Đằng đi Đà Lạt ư? Tôi không thể hình dung được chuyện này. Không được. Chuyện quá nghiêm trọng với con gái Huế, nhất là với bạn tôi, một  người chưa hề bước chân qua đèo Hải Vân.
 
Ánh mắt của Cát Đằng tha thiết: “ An Nhiên giúp mình đi. Năn nỉ mà. Cam đoan không có chi xảy ra. Mình đi ba ngày. Chỉ bạn mới có thể giúp mình…”. Điều  gì khiến một người con gái dịu dàng như Cát Đằng nẫy ra quyết định liều lĩnh thế? Cái này gọi là sức mạnh của tình yêu đấy ư? Xưa nay tôi vốn dị ứng với thứ tiểu thuyết lãng mạn của Quỳnh Dao và hoàn toàn không tin vào nhan đề một cuốn truyện của Lệ Hằng “ Chết cho tình yêu”. Không, không đựơc.
 
Hai đứa không nói chuyện với nhau suốt ba ngày. Nhưng cái vẻ ủ dột của Cát Đằng làm tôi thương xót. Anh H. cũng gởi cho tôi một bức thư ngắn. Anh bảo chính vì xem Cát Đằng là người trăm năm nên anh muốn nàng có mặt trong buổi lễ trang trọng và ý nghĩa này. Anh chịu trách nhiệm về chuyến đi. Lòng tôi mềm ra. Tình yêu xét cho cùng cũng có cái lý của nó. Tôi trở thành kẻ đồng lõa trong cuộc hành trình của bạn.
 
Vậy là tôi sang nhà xin ba mạ Cát Đằng cho hai đứa vào Đà Nẵng ăn cưới bà chị họ. Mạ bạn tỏ ra e ngại như tất cả những bà mẹ người Huế. Nhưng ba bạn thoáng hơn, hình như ông đang vui vì mới trúng một cú affaire. Hơn nữa, chơi với Cát Đằng hơn mười mấy năm, gia đình bạn tin tưởng tôi tuyệt đối.
 
Ba của bạn đích thân chở chúng tôi ra bến xe. Ông không thể ngờ rằng khi tới Đà Nẵng, việc đầu tiên của chúng tôi là đến ngay Air Việt Nam trên đường Độc Lập. Và chuyến bay DC six đưa Cát Đằng lên thành phố cao nguyên lúc hai giờ chiều để lại tôi ở  lại với  cõi lòng như lửa đốt.
 
Ba đêm tôi  ăn không ngon, ngủ không yên ở nhà bà chị. Tôi chắp hai tay cầu nguyện Chúa, Phật và  tất cả các đấng siêu nhiên cho chuyến đi thuận buồm xuôi gió. Tôi hơi ân hận vì đã  lạc lòng trước những giọt nước mắt của bạn. Có chuyện gì xảy ra với Cát Đằng chắc tôi không sống nổi...
 
Và chiều thứ hai tôi đã oà khóc tức tưởi khi thấy bạn bước ra từ chiếc Bus của Hàng không Việt Nam.
 
Nhưng quả thật, chưa bao giờ tôi thấy bạn xinh như vậy. Mặt Cát Đằng hớn hở như trăng rằm, môi cười rất tươi. Nàng ôm choàng lấy tôi, hôn lên má : - “Cám ơn An Nhiên. Chúng mình cám ơn bạn vô cùng”. Những giận hờn trong tôi đều tan biến.
 
Trên chuyến xe ra Huế, Cát Đằng tíu tít kể cho tôi bao nhiêu chuyện. Thành phố hoa, những con dốc mù sương, chuyến xe ngựa vòng quanh bờ hồ Xuân Hương và một tấm ảnh đầy ấn tượng.  Dưới ánh đèn huy hoàng có hàng chữ Lễ trao nhẫn với hai cái dấu như hai vương miện, bên một cái nhẫn to được trang trí cách điệu lộng lẫy, bạn tôi âu yếm lồng vào tay anh H. chiếc nhẫn Võ Bị. Họ như đôi tân lang và tân nương trong ngày cưới. Mãi mãi đây là một bí mật chỉ riêng ba người biết…
 
Thỉnh thoảng chúng tôi qua Bến Ngự thăm nhà anh H. Mẹ anh coi Cát Đằng như con dâu tương lai. Bà kể về tuổi thơ vất vả của anh từ khi di cư vào Nam, về lúc cha anh mất, về người con trai cả tên Hùng phải lưu lạc vào Bình Dương kiếm sống. Có những đoạn xúc động, bà rươm rướm nước mắt. Cát Đằng ngồi kế bên bóp nhẹ tay bà. Một hình ảnh dễ thương làm sao. Bà còn dạy cho bạn tôi cách chế biến những món ăn mà con trai thích như canh cua rau đay, bún chả…
 
Cuối năm 1972 anh H. ra trường. Anh có mười ngày phép trước khi về trình diện tại Sư đoàn 9 Bộ binh có biệt danh “ Mũi tên thép”, Bộ Tư Lệnh Sư đoàn đóng ở Vĩnh Long,Tư lệnh là Chuẩn Tướng Trần Bá Di. Chiến trường miền Trung đang sôi động  với chiến dịch tái chiếm Cổ thành Quảng Trị. Đêm đêm tiếng đại bác ì ầm từ phía Bắc vọng về. Thành phố Huế tràn ngập màu áo lính rằn ri.Cát Đằng có vẻ yên tâm với sự chọn lựa này dù hai người có xa nhau về không gian. Mười ngày, tôi phải ra sức bao biện cho bạn để họ có những giây phút hạnh phúc.
 
Rồi cũng đến lúc chia ly. Chúng tôi tiễn anh vào Nam. Hình ảnh cuối cùng trong mắt tôi là cảnh chàng thiếu úy trẻ trai cầm chặt tay người yêu nói những lời từ biệt: “Em cười đi. Cát Đằng cười đi cho anh yên tâm. Anh sẽ về với em và sẽ thưa chuyện với ba mẹ”. Bạn tôi cười mà nước mắt hoen mi.
 
Như muốn làm Cát Đằng yên tâm, thư anh H. gởi về liên tục. Anh đóng quân ở Cao Lãnh. Anh làm Đại đội trưởng  một đại đội trực thuộc Tiểu đoàn 3 Trung đoàn 14. Anh nói về một vùng đất trù phú, những người dân miền Nam hồn nhiên, những đồng ruộng bạt ngàn, những cánh đồng chó ngáp… Anh ít kể chuyện chiến trường, chắc để người yêu bớt lo.
 
Nhà ông Trưởng Ty muốn dạm ngỏ Cát Đằng trước khi con trai đi du học. Cô bạn tôi nói với ba mạ “Con chưa muốn lấy chồng” nhưng sau đó cô gặp riêng chàng trai và bảo “Tôi có người yêu rồi. Anh đừng mất công”.Tội nghiệp anh chàng cứ đứng ngẩn tò te.
 
Cứ thế, những lá thư nối hai niềm vui. Cát Đằng mơ màng dự trù với tôi về tương lai. Một ngôi nhà  với ngọn lửa ấm và những đứa con ngoan sẽ ra đời. Ước mơ trong tầm tay với. Tôi chia sẻ hạnh phúc với bạn bằng nụ cười bao dung.
 
Buổi chiều hai đứa ngồi trước sân hóng gió thì một cánh chim sâu sa xuống trước mặt. Bạn tôi nâng nó lên, âu yếm vuốt ve “Tội nghiệp mày chưa. Chị nuôi em nhé!”. Mạ Cát Đằng đi từ nhà sau lên hốt hoảng: “Chim sa cá nhảy. Ăn nói bậy bạ”. Rồi bà lấy một nắm gạo muối tung ra sân. Bạn tôi le lưỡi “Mạ sao mê tín dị đoan. Thả con chim  thấy tội bắt chết!” 
 
***
 
Huế tháng chín. Mùa thu. Những trái thanh trà da đã rám vàng. Tôi chở Cát Đằng lên Nguyệt Biều chọn những trái thật ngon về cúng Rằm tháng Tám. Bạn không quên lựa một cặp thật đẹp để biếu mẹ anh H. chưng bàn thờ. Hai đứa ngồi thòng chân xuống dòng nước sông Hương trên bến đò Dã Viên. Trời thật đẹp. Nắng vàng như mật. Gió hiu hiu. Cát Đằng thở dài “Phải chi có anh H ”. Tôi nguẩy vai “Rồi sẽ có ”.
 
Rẽ vào căn nhà dốc Bến Ngự. Cô bạn nhanh nhẹn nhảy chân sáo trên lối đi quen thuộc. Nhà vắng ngắt. Mùi hương trầm thoang thoảng trên bàn thờ. Chị Hương ngồi lặng trên ghế, nước mắt chảy quanh. Bạn tôi hốt hoảng: “Có chuyện chi rứa chị? Mẹ mô rồi? ”. Chị Hương òa khóc: “ Mẹ với anh  Hùng đi Vĩnh Long. Em ơi, thằng H.”…. Cát Đằng  quỵ xuống đất. Tôi và chị Hương đỡ vội lên. Mặt bạn tái xanh, hơi thở ngắn như không còn sức sống. Tôi rót cho bạn một ly nước lọc rồi hỏi han chi tiết. Chị Hương kể cho tôi nghe trong tiếng sụt sịt. Anh Hùng từ Bình Dương gọi ra báo tin anh H. bị thương nặng trong cuộc hành quân vào mật khu ở quận Mỹ An, vùng Đồng Tháp Mười. Mẹ chị đang trên đường vào, chưa biết chi thêm.Trong bóng chiều chạng vạng, ba chị em ngồi yên lặng. Không ai đủ sức đưa tay bật ngọn đèn điện. Chao ôi! Tuần trước tôi vừa đưa thư cho bạn.  Anh đang đóng quân ở Đồng Tháp. Anh kể cho bạn nghe về Gò Công - quê hương của bà Từ Dũ mẹ vua Tự Đức; về cam Cái Bè; về mận Trung Lương …Thượng đế ác nghiệt vậy sao? Anh vừa tròn 24 tuổi, ra trường mới chín tháng…
 
Không biết bằng cách nào tôi đã đưa Cát Đằng về đến nhà. Bạn ngồi sau tôi xiêu vẹo như một cái xác không hồn. Tôi nói với bác  gái bạn bị trúng gió rồi đưa bạn vào phòng. Chân tay bạn lạnh ngắt. Đêm ấy tôi xin ở lại, thi thoảng  lắng nghe tiếng rên rỉ đau đớn của Cát Đằng. Mọi ngôn ngữ trong giây phút này đều bất lực!
 
Nhưng nỗi bất hạnh không chỉ ngang chừng đó.Trong khi Cát Đằng định thưa thật với ba mạ để xin phép vào  Vĩnh Long thì mươi hôm sau, mẹ anh H. nhắn ra anh H. không chỉ bị thương nặng mà còn mất tích. Cầm bằng như anh đã chết.Thôi còn mong chi nữa. Lần này thì bạn tôi quỵ ngã hoàn toàn. Nỗi đau ẩn giấu tận trong tim biến bạn thành một bóng ma câm lặng. Bác gái cứ căn vặn tôi hai đứa có chuyện chi không. Làm sao tôi dám trả lời. Thôi cứ đế bác tối tối thắp nhang ngoài cổng ngõ cầu cho con gái yêu đừng mắc “bệnh đàng dưới ”.
 
Phải sau ba tháng mẹ anh H. mới ra Huế. Bà sút gần bốn kí và hốc hác hẳn đi. Bà ôm lấy Cát Đằng khóc nghẹn “Con ơi! Bác không có duyên làm mẹ con rồi!”. Cát Đằng òa lên nức nở. Thôi cứ để bạn khóc cho nhẹ lòng.Tôi thật đau xót khi thấy đêm đêm bạn lôi tấm ảnh hai người trao nhẫn ra ngắm nghía.
 
Không hiểu sao nhà anh H. không lập bàn thờ. Có lẽ niềm tin của người mẹ cho rằng con mình chưa chết. Vâng, mất tích chưa hẳn là chết. Mắt anh sáng, tai anh to vậy mà. Chắc bác vẫn hy vọng một phép mầu nào đó  chăng? Căn nhà đóng kín cửa. Mẹ anh H. vắng nhà luôn. Chị  Hương bảo bà vào Bình Dương chơi với cháu nội cho đỡ buồn. Khu vườn rộng thui thủi một mình chị. Mỗi lần ghé thăm, nhìn Cát Đằng, chị lại bệu bạo “ Số em sao khổ thế H. ơi!”
 
Những đợt trao trả tù binh hai bên ở Lộc Ninh, Quảng Trị làm cho Cát Đằng hi vọng. Biết đâu anh sẽ trở về. Anh chỉ bị thương thôi mà. Bạn chăm chú theo dõi trên những tờ báo Tiền Tuyến, Sóng Thần… Nhưng tháng ngày qua. Niềm hi vọng hầu như đã thành tuyệt vọng. Bất chấp hiệp định Paris, chiến sự ngày càng ác liệt. Máy bay  cứu thương liên tục hạ xuống bệnh viện Mang Cá trong Thành Nội…
 
Rồi Huế nháo nhác, tan tác…Rồi đất nước tang thương…
 
Ba Cát Đằng đi “cải tạo” vì bị xếp vào loại “ Ngụy quyền”. Bạn tôi bước xuống cuộc đời.
 
Trải một tấm nilon ở góc chân cầu Trường Tiền, Cát Đằng đi bán chợ trời. Cô tiểu thư con nhà quyền quý ấy bây giờ phải bươn chải với gánh nặng áo cơm của cả gia đình. Bạn bán từng cái áo nhà binh cho người đi lao động, vài cái lon Guigoz tiện cho người đi thăm nuôi, những chiếc áo dài cũ của vợ các sỹ quan một thuở huy hoàng, gói thuốc lá Tam Đảo nặng mùi khét lẹt cho đến cái chén kiểu, ly tách sang trọng một thời vang bóng...Nhìn bạn đếm từng hào tiền Bắc sau buổi chợ, tôi chảy nước mắt. Nhưng một nửa đất nước đều như thế, biết làm sao.
 
Thi thoảng nhờ em gái Hoàng Lan coi hàng, chúng tôi lên Thiên An quét lá thông về làm chất đốt. Củi cũng phải mua bằng tem phiếu mà gia đình chúng tôi làm gì có đặc quyền đặc lợi ấy. Sau  khi nhét đầy lá vào hai bao tải, chúng tôi ngồi dựa gốc cây nghỉ mệt. Cát Đằng âu sầu đưa mắt  nhìn chung quanh.Tôi biết trong đầu bạn đang nghĩ  về những kỷ niệm xưa. Cũng nơi này, ngày ấy có một cặp tình nhân thật đẹp đang nắm tay nhau đi dưới rặng thông. Cảnh đấy  người đây nhưng một người đà khuất bóng. Tôi không dám gợi lên điều gì với bạn. Mọi chuyện cứ như là một giấc mơ nhưng mỗi sáng mai thức dậy lại phải đối mặt với sự thật kinh hoàng.
 
Thành phố tăm tối hẳn đi. Mới 8 giờ tối điện đã cúp. Những chiếc Honda đổi chỗ cho giai cấp cán bộ. Huế xuất hiện xe đạp thồ. Những khuôn mặt đau khổ nhếch nhác. Những câu ca dao hiện đại được thầm thì chuyền miệng. Những bài hát được chế biến bi hài. Người ta nhắc lại câu nói mười bốn chữ bất hủ của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. “Rồi cứ thế ni mãi răng???” Mạ tôi ngữa mặt than trời rồi chặt hết những cây mai vàng thay vào mấy luống khoai lang cứu đói!
 
Bốn năm sau, ba Cát Đằng chết trong tù vì sức tàn lực kiệt. Mạ bạn khô nước mắt đi thăm mộ chồng ngoài Thanh Hóa. Một mô đất trơ trọi trong rừng được đánh dấu bằng viên đá xanh lớn. Còn đâu người đàn ông khả kính trụ cột gia đình. Tóc bà bạc trắng. Cái lúm đồng tiền xưa kia đã trở thành ngoặc đơn rồi ngoặc kép.
 
Từ nước ngoài người con trai yêu Cát Đằng ngày đó xuất hiện như một vị cứu tinh. Anh ta gởi về giúp gia đình bạn những xấp vải, những gói thuốc tây, những đồng đô la được khéo léo nhét trong hộp sữa… Tất cả chỉ nhằm một mục đích chinh phục tình yêu của người con gái Huế mà anh ta say đắm. Mạ bạn tha thiết khẩn nài “Con ơi! Thằng đó nó tốt, lại hiền lành, con nhà trí thức. Lấy hắn con cũng sướng mà các em cũng đỡ khổ. Với lý lịch này thì nhà mình không ngóc đầu lên được. Con chỉ có nước lấy anh xe thồ hoặc ông nông dân mà thôi”. Bạn tôi gục mặt vào hai bàn tay khóc nghẹn. Phải chăng bạn đang nghĩ đến một Thúy Kiều hiện đại?
 
Tôi khuyên Cát Đằng: Mọi chuyện đã trở thành quá khứ. Anh H. mất rồi. Đã gần 7 năm. Bạn đâu phải là kẻ phụ tình. Trong hoàn cảnh này đôi khi phải thực tế.  Bạn yên lặng gật đầu.
 
Mọi chuyện được thu xếp nhanh chóng. Bà mẹ chú rể từ nước ngoài trở về. Một vài lễ nghi cần thiết trong buổi giao thời. Và xúc tiến giấy tờ bảo lãnh.
 
Tôi đưa Cát Đằng lên thăm chị Hương  lần cuối. May sao lại gặp  mẹ anh H. từ  Bình Dương trở về. Bác bảo có thể bác  sẽ vào trong đó ở hẳn. Bác ôm vai bạn tôi: “Bác mừng cho con. Biết tin này ở đâu đó chắc H. vui lắm”. Trên bàn thờ vẫn chưa có ảnh của anh. Ghê gớm thay lòng tin của người mẹ. Bạn tôi xin phép được lạy trước bàn thờ ba lạy và nhét vào túi mẹ anh H. chút vốn liếng còm cỏi. Nước mắt người mẹ ứa ra tràn trề. Bà khẽ kêu “ H. ơi! ”.
 
Trước khi xuất cảnh, Cát Đằng đến nhà tôi ngủ lại một đêm. Bạn đem theo cái hộp bánh CHOCOLATE chứa  những bức thư của hai người, tấm ảnh trao nhẫn được đặt lên trên.  Cát Đằng bảo tôi “An Nhiên là một chứng nhân quan trọng  trong mối tình lớn của mình. Mình không thể mang theo kỉ vật quý giá này. Bạn giữ giúp mình cho đến lúc nào còn có thể ”. Tôi cất vào tủ sách, lòng ngậm ngùi thương bạn.
 
Thời gian qua, Cát Đằng đã có một gia đình êm ấm. Ông chồng thành đạt, hai con một trai một gái xinh xắn. Cả hai đang định cư ở thành phố Denver, tiểu bang Colorado. Tôi mừng cho bạn. Cuối cùng, một cô gái ngoan hiền như bạn tôi nhất định phải được sung sướng. Qua những cuộc  trò chuyện từ nước ngoài, tôi tránh gợi chuyện ngày xưa.
 
Tôi cũng đã có gia đình. Một ông chồng do bàn tay số mệnh sắp đặt. Một ông chồng yêu vợ thương con nhưng vô tâm. Tôi cũng chẳng bao giờ hé môi về chuyện bạn mình… 
 
***
  
Ngày mai, gia đình tôi sẽ vào Nam lập nghiệp. Mở tủ sách, tôi cầm cái hộp bánh cũ. Những bức thư  nhuốm màu thời gian nhưng tấm ảnh vẫn còn rất rõ. Ôi! Nụ cười hạnh phúc của cả hai người.
 
Tôi không thể đem chúng theo. Đốt thì tôi không nỡ. Suy đi tính lại, tôi quyết định đem lên nhà chị Hương, nhờ chị đặt trên bàn thờ anh H. Không còn gì để hy vọng về anh nữa rồi.
 
Căn nhà vẫn như xưa dù thời gian có làm nó già và cũ kỹ hơn. Tiếng chim sâu vẫn kêu lách chách trên những vòm cây xanh. Tôi dựng chiếc xe vào gốc ngọc lan, lòng bùi ngùi. Kỷ niệm ngày xưa ùa về trong ký ức. Một chiếc xe lăn trên hàng hiên. Tôi trách mình đã lâu không thăm mẹ anh. Cuộc sống bận rộn với cơm áo, gạo tiền làm mình trở thành người có lỗi.
 
Tôi tự nhiên đẩy cửa vào phòng khách khép hờ. Một người đàn ông nằm trên ghế sofa, tay cầm cuốn sách, chiếc chăn mỏng đắp ngang thân, phía bên dưới là một… khoảng trống. Anh ngước nhìn lên. Có phải tôi đang mơ? Đôi mắt ấy, gương mặt ấy… Đúng là anh H. Anh cất tiếng “An Nhiên đấy ư em? ”. Tôi bàng hoàng, ngơ ngẩn.
 
Vâng, anh H. Anh  bị thương nặng nhưng không chết. Trong cuộc hành quân của Tiếu đoàn  vào mật khu Đồng Tháp Mười, đại đội của anh sa vào ổ phục kích. Môt mảnh B40 đã bay vào lưng anh, chạm ngay cột sống. Anh được đưa về quân y viện Phan Thanh Giản, Cần Thơ. Bác sỹ cho biết mảnh đạn đã làm đứt dây thần kinh tủy sống dẫn đến khả năng bại liệt suốt đời.  Trong cái đau đớn tận cùng của thể xác, anh vẫn nghĩ đến Cát Đằng. Không thể gắn số phận bất hạnh của mình đối với người yêu, anh cắn chặt răng bảo mẹ báo tin với Cát Đằng là mình bị mất tích. Và người mẹ đã làm theo lời anh…
 
 Từ Cần Thơ, anh được chuyển vể Tổng y viện Cộng Hòa. Các bác sỹ và y tá tận tâm chăm sóc anh. Vết  thương bên ngoài tạm ổn, anh  sang Trung tâm phục hồi chức năng. Mẹ già theo sát anh từng bước. Đó là lý do khiến bà bảo với Cát Đằng mình vào Nam sống với người anh cả.
 
Sau ngày 30 tháng 4, tất cả thương binh nặng nhẹ đều bị tống ra đường. Anh về Bình Dương nương tựa nhà anh Hùng. Vết thương không còn được quân y viện  chăm sóc, lâu ngày bị hoại tử và hai chân anh bị tháo khớp tới gối. Mẹ già mất, Cát Đằng đã đi xa, anh quyết định về Huế sống phần đời còn lại bên người chị gái thương yêu. Gần mười mấy năm nay anh sống nhờ vào sự cưu mang, đùm bọc của các khóa Võ Bị ở nước ngoài, những chiến hữu cùng đơn vị và một số anh em còn kẹt lại ở quê nhà... Cao quý thay tình nghĩa đồng môn của những chàng trai cùng trường Mẹ! Anh cũng tự ôn kiến thức để  dịch thuật, để luyện thi cho các học sinh nghèo vào Đại học. Cụôc sống không đến nỗi thấy mình là người vô dụng.
 
Cầm xấp thư và tấm hình, anh H. trầm ngâm bảo tôi: “Anh cám ơn An Nhiên. Cố vật đã tìm về cố chủ. Cứ để cho Cát Đằng nghĩ rằng anh đã chết. Đó chính là tình yêu của anh dành cho cô ấy”. Anh nâng chiếc nhẫn có viên hồng ngọc trên ngón tay áp út, âu yếm hôn vào nó. Chiếc nhẫn năm xưa, Cát Đằng đã lồng vào tay anh trong đêm Lễ trao nhẫn trên Vũ đình trường.
 
Một cơn gió lạnh thoảng qua. Mùa Đông đã về trên thành phố.
Hương Thủy

Tuesday, January 20, 2015

Vài Hình Ảnh Buổi Ra Mắt Sách Chính Luận Của Trần Trung Đạo

 Tôi đã đọc thơ văn của anh Trần Trung Đạo từ lúc còn đang cắp sách đến trường ở Việt Nam trước năm 75. Đọc những bài  thơ về mẹ, về thân phận, về quê hương của anh tôi cảm thấy rất gần gủi với mình.
 Dù ngày ra mắt sách của anh trùng với ngày gói báo Đa Hiệu nhưng chúng tôi cũng gói xong Đa Hiệu 103 kịp giờ đến tham dự buổi ra mắt sách của anh.

















Monday, January 19, 2015

Trần Việt Hải: Bạn tôi, Trần Trung Đạo



Giới thiệu: Đang ngồi chờ máy bay nhận được bài viết của nhà văn Trần Việt Hải, viết đê giới thiệu Chính Luận Trần Trung Đạo nhân dịp tác phâm này sẽ  được giới thiệu ngày mai, 18 tháng 1 tại Nam California. Bài viết khá dài vì anh viết rộng đến nhiều lãnh vực trong đó có cả thi ca và tôn giáo, cũng như trích dẫn khá đầy đủ những điêm chính của Chính Luận. Xin chia sẻ cùng anh chị và các bạn.

*********************************************************

Nhân hai nhà thơ Nguyễn Thanh Huy và Nguyễn Tiến Quỳnh Giao cho tôi biết Trần Trung Đạo sẽ sang Nam California để ra mắt tác phẩm mới, "Chính Luận Trần Trung Đạo". Tôi ngẫm nghĩ về tựa đề này, 3 chữ sau vốn quen thuộc với nhiều người rồi, thế thì hai chữ đầu mang ý nghĩa gì nhỉ; Với thiển ý thì "Chính Luận", có thể Đạo suy tư về những nan đề về những chiến thuật cấp bách hay những chiến lược quan yếu dài hạn mà những người quốc gia chúng ta có thể tìm được những đề nghị hay những phân tích về chủ đề do Đạo trình bày. Chính luận có vai trò đặc biệt trong dòng lịch sử đấu tranh chính trị, văn hóa và xã hội và vì ngày hôm nay chúng ta không đấu tranh chống người Cộng sản bằng võ khí quy ước nữa, nhưng bằng phương tiện hình ảnh, chữ nghĩa, mang khía cạnh chiến tranh tâm lý chiến. Thế nên "Chính Luận Trần Trung Đạo" trong cái nhìn của người viết bài là một trong những phong cách sáng tác tiêu biểu nhất biểu tượng những nan đề hay chủ điểm mà tác giả Trần Trung Đạo đã khai triển gởi đến người đọc và cũng là những chủ điểm ý thức hệ của người cầm bút. Ba nan đề chính được khai triển và phân tích cặn kẽ gồm Hiểm họa Trung Cộng, Thực trạng Việt NamChính sách tẩy não của Cộng Sản Việt Nam.  

Chính luận Trần Trung Đạo là một tuyển tập gồm các bài tham luận chính trị dày 600 trang gồm 42 bài chọn lọc của nhà văn Trần Trung Đạo trong nhiều năm qua. Nay được đúc kết theo tuần tự đề mục ăn khớp với nhau, để khi độc giả đọc sẽ theo luồng tư tưởng mạch lạc.

Tác phẩm trình bày chủ đề Hiểm họa Trung Cộng qua 14 bài,tác giả trình bày các kinh nghiệm lịch sử của thế giới qua chính sách của các chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ, Tiệp Khắc, Nam Phi, kinh nghiệm Thổ Nhĩ Kỳ chủ trương cứng rắn chống Liên Xô, đứng hẳn về phía Tây phương. Kinh nghiệm "Phần Lan hóa" bởi Liên Xô vì chịu ảnh hưởng chính trị Nga qúa nặng. So sánh chính sách của Hitler trong thế chiến thứ hai và chính sách của Trung Cộng hiện nay, phân tích chủ nghĩa thực dân Trung Cộng tại các quốc gia Phi Châu như Congo, Angola, Zimbabwe, Sudan cũng như chủ trương bành trướng của Trung Cộng tại vùng Đông Nam Á. Trung Cộng muốn Việt Nam những gì Liên Xô muốn Phần Lan khi xưa và tham vọng xâm lăng Hán hóa nhiều hơn. Sự kiện sai lầm của đảng Cộng Sản Việt Nam qua Công hàm bán nước của Phạm Văn Đồng năm 1958 và sự kiện đau lòng chúng ta khi suy tư về hậu quả mất nước do Hội Nghị Thành Đô đầu thập niên 1990.

Người viết bài còn nhớ những câu nói ngô nghê của viên Tổng Bí Thư Lê Duẩn: "Ta đánh Mỹ là đánh cho Lên Xô, Trung Quốc". Hay của viên Chủ Tịch Nước Nguyễn Minh Triết: "Có người ví von Việt Nam, Cuba như là trời đất sinh ra, một anh ở phía đông, một anh ở phía tây. Chúng ta thay nhau canh giữ hoà bình cho thế giới. Cuba thức thì Việt Nam ngủ, Việt Nam gác thì Cuba nghỉ”. Những ý tưởng nô lệ người.

Nan đề kế là Hiện trạng Việt Nam gồm 16 bài, trình bày các phong trào thanh niên sinh viên học sinh trước 1975, các phong trào xã hội tại Việt Nam, xã hội dân sự, cuộc đấu tranh dân chủ của thế hệ trẻ, các khó khăn và triển vọng của cuộc vận động dân chủ tại Việt Nam hiện nay.

Phần này tác giả gửi tâm bút như nỗi lòng xây dựng đặt niềm tin vào tuổi trẻ Việt Nam đem lại dân chủ để đưa dân tộc Việt Nam đến tương lai tươi sáng, tác giả trân trọng khi ghi ngay nơi trang đầu của sách Chính Luận là "Tặng tuổi trẻ Việt Nam.".

Đề cập về yếu tố dân tộc độc lập và con đường cứu nước phải là tự do dân chủ theo tác giả Trần Trung Ðạo, dân chủ là giải pháp duy nhất cho Việt Nam. Vì chỉ có dân chủ thì mới đẩy lùi hiểm họa bắc thuộc, cho phép người dân nhập cuộc giải quyết các vấn nạn xã hội, tạo môi trường cho đất nước hoà nhập vào thế giới tự do và phát triển. Tác giả nhắc nhở rằng "con đường đến dân chủ rộng thênh thang, đủ rộng cho mọi người cùng tham gia". Thật vậy, mỗi cá nhân chúng ta có thể chọn lựa phương thức riêng tư của mình trên con đường mà cứu cánh đảng Cộng Sảnn Việt Nam phải bị triệt tiêu. Hãy mở các mũi nhọn cho dân chủ nhân quyền. Nhân quyền là giá trị toàn cầu mà các quốc gia văn minh tiến bộ tôn trọng và công chúng ở các nơi đó quan tâm và chia xẻ. Dân chủ chỉ có khi người dân biết kết hợp thành sức mạnh vượt lên trên sức mạnh của chế độ. 

Bài học tẩy não sau hết là chủ đề thứ ba gồm 12 bài, phân tích chính sách tẩy não như cột xương sống đang chống đở chế độ Cộng Sản hiện nay, các phương pháp giải tẩy não, tiêm nhiễm, đầu độc qua các chính sách tẩy não tại Liên Xô trước đây và của Bắc Hàn, Trung Cộng, Việt Nam hiện nay. Trang 519 của sách Chính Luận ghi nhận sự kiện Tẩy não là chủ đề chính thứ ba trong sách Chính Luận. Tác giải bàn luận về vai trò của chính sách tẩy não trong chế độ Cộng Sản, tác giả viết rằng: "Khái niệm tẩy não được biết đến từ lâu qua các phương cách gian tà, chiến tranh, tình báo, tuy nhiên chỉ dưới các chế độ Cộng Sản kỹ thuật này mới được nâng lên thành quốc sách và được thực hiện một cách triệt để, được hệ thống hóa, bao trùm mọi lãnh vực xã hội và trong mọi tầng lớp nhân dân."

Phần sau đây là những điểm mà người viết xin trình bày những tài liệu do tác giả Trần Trung Đạo viết và phổ biến. Tôi đọc bài viết về sự tẩy não mà hai chế độ Cộng Sản áp dụng, nên trong bài Đảng 50 Xu tại Trung Cộng, Trần Trung Đạo viết: "Như người viết đã có dịp phân tích về Chính sách tẩy não của CS, ngày nào các chính sách tuyên truyền CS không còn hiệu quả, đó cũng là ngày trái tim của chế độ ngừng đập, đúng như Anne-Marie Brady viết trong trang đầu của tác phẩm Marketing Dictatorship: Propaganda and Thought Work in Contemporary China: “Tuyên truyền thật là máu sống của đảng và nhà nước CS”. Tuyên truyền dưới chế CS là cả một hệ thống tinh vi, phức tạp, đa diện, bài viết này chỉ bàn đến bộ phận có chức năng kiểm soát và lèo lái dư luận trên các trang mạng internet, đó là bộ phận Dư Luận Viên. CSVN rập khuôn các chính sách tuyên truyền của Trung Cộng, do đó từ các nghiên cứu về Trung Cộng, sẽ dễ dàng suy ra các chính sách vận dụng dư luận của CSVN.

Tại Trung Cộng, dư luận viên không chỉ chịu sự kiểm soát của Ban Tuyên Truyền Trung Ương (Việt Nam gọi là Ban Tuyên Giáo Trung ương) về các chính sách chung của đảng CS nhưng mỗi bộ trong chính phủ Trung Cộng cũng có các dư luận viên riêng để phục vụ cho chính sách riêng của bộ và có trách nhiệm trả lương cho dư luận viên này. Lực lượng dư luận viên giấu mặt này được gọi chung là Đảng 50 Xu (五毛党 wǔmáo dǎng) vì khi bắt đầu năm 2004 họ được trả 50 Xu cho mỗi lời bình. Mười năm sau, vật giá leo thang, mức lương cũng gia tăng theo, nhưng thành phần dư luận viên vẫn còn được gọi là những đảng viên của Đảng 50 Xu. Các lãnh đạo bộ máy tuyên truyền Trung Cộng cho rằng danh từ Đảng 50 Xu là sản phẩm tuyên truyền của Mỹ, Nhật dùng để chế giễu các cơ quan thông tin Trung Cộng."

Trở lại hiện trạng Việt Nam, trong bài tiểu luận "Tuổi trẻ Việt Nam, học lịch sử để làm lịch sử", Đạo viết:

"Ba mươi ba năm sau. Cũng những ngày cuối năm, ngồi xem hình ảnh các cuộc biểu tình ở Hà Nội, đọc bản tin được viết vội vàng trên đường phố Sài Gòn, đọc danh sách của những người ký tên, trong đó đa số là tuổi trẻ, để phản đối Trung Quốc vi phạm lãnh thổ Việt Nam trên Internet, tôi vui mừng và cảm động. Trung Quốc không phải vì các cuộc biểu tình của các em mà trao trả lại Hoàng Sa, Trường Sa cho Việt Nam, nhưng chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến việc thực thi chính sách bá quyền của họ trên biển Đông. Để duy trì mức phát triển kinh tế hiện nay và chạy đua với các cường quốc kinh tế, Trung Quốc đang cần sự ổn định chính trị và kinh tế hơn bất cứ quốc gia nào khác trong vùng. Nhìn các em tôi lại nhớ đến chính mình. Đường phố Sài Gòn, nơi các em đang đứng hôm nay cũng là nơi tôi đã đứng đọc từng tên của những người đã ở lại trong lòng biển cả. Khẩu hiệu “Hoàng Sa là của Việt Nam” cũng là khẩu hiệu mà sinh viên chúng tôi đã hô ba mươi ba năm trước. Chúng ta có thể còn vài điểm khác nhau nhưng có chung một tổ quốc. Đó là điều hệ trọng. Lòng yêu nước đã thúc giục các em vượt qua bức tường sợ hãi, bất chấp sự ngăn cản của Đảng, của nhà nước, của ban lãnh đạo trường để cùng xuống đường nói tiếng của một người Việt Nam khi tổ quốc lâm nguy. Lịch sử bao giờ cũng mang tính thời đại, và trang sử Việt Nam hôm nay đang được viết bởi các em, những người Việt Nam đang đứng trước toà đại sứ Trung Quốc ở Hà Nội, trước lãnh sự quán Trung Quốc ở Sài Gòn. Và cũng qua những biến cố lịch sử này, các em sẽ có cơ hội thấy những sự thật đắng cay, những bài học bẽ bàng mà từ trước đến nay đã bị che lấp bởi hệ thống tuyên truyền lừa dối của Đảng. Các em đang học lịch sử và đang làm lịch sử...”

Lãnh đạo Đảng đã, đang và chắc sẽ làm tất cả những gì họ có thể làm để ngăn cản các cuộc biểu tình dù ôn hoà và bất bạo động của tuổi trẻ Việt Nam. Tuần trước họ ra chỉ thị cấm biểu tình, tuần này họ chụp mũ các em chống phá trật tự xã hội, tuần sau họ sẽ đem xe chữa lửa đến đàn áp và tuần sau nữa có thể trục xuất khỏi trường, bắt giam, kết án, tù đày. Tuy nhiên, lịch sử đã nhiều lần chứng minh, khi một chế độ chỉ còn trông cậy vào các phương tiện bạo lực trấn áp để tồn tại, chỉ còn biết sử dụng bộ máy công an kềm kệp để duy trì quyền cai trị, ngày tàn của chế độ đó chỉ là vấn đề thời gian. Hành động tuyệt vọng của Nicolae Ceausescu khi ra lệnh công an bắn vào cuộc biểu tình của nhân dân Rumania sáng ngày 17 tháng 12 năm 1989 chỉ để dẫn đến bản án tử hình dành cho vợ chồng ông ta một tuần sau đó. Lãnh tụ cộng sản Slobodan Milosevic một thời là tổng thống Serbia đầy quyền lực nắm trọn quyền sinh sát trong tay, cuối cùng cũng phải chết trong tù. Erich Honecker hung thần Đông Đức, Idi Amin đao thủ phủ của Uganda hay Mobuto bạo chúa của Congo đều đã gởi tấm thân tàn trên đất khách, để lại tiếng xấu muôn đời. Nếu giới lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam còn nghĩ đến tương lai của chính họ và còn biết lo cho tương lai của đất nước, họ phải chọn đứng về phía dân tộc. 

Con đường duy nhất để đạt đến một tương lai tự do, dân chủ, nhân bản và thịnh vượng là con đường dân tộc và cũng chỉ có một Việt Nam tự do, dân chủ, nhân bản và thịnh vượng thì các thế hệ Việt Nam mai sau mới có cơ may giành lại được Hoàng Sa và Trường Sa."

Trần Trung Đạo luôn trân trọng với tuổi trẻ Việt Nam, tương lai của dân tộc, Đạo viết bài "Đừng khóc cho Phương Uyên mà hãy sống cùng mơ ước của em.", hãy xem:

"Cô bé đứng trên bục cao, đôi kính cận có cọng dày, tóc vén cao, áo trắng học trò, thân hình mảnh mai trông giống như một cô bé học sinh 15 tuổi đang đứng bảng đen trong lớp học chứ không phải đứng trước tòa án Cộng Sản. Em không sợ hãi, không van xin, trầm tĩnh và tinh khôi như một thiên thần: "Tôi là sinh viên yêu nước, nếu phiên tòa hôm nay kết tội tôi, thì những người trẻ khác sẽ sợ hãi và không còn dám bảo vệ chủ quyền của đất nước. Nếu một sinh viên, tuổi trẻ như tôi mà bị kết án tù vì yêu nước thì thật sự tôi không cam tâm".  

Cạnh em, Đinh Nguyên Kha, áo sơ mi trắng, tóc cắt cao của một thanh niên Việt Nam kiểu mẫu. Nguyên Kha cũng dõng dạc: "Tôi trước sau vẫn là một người yêu nước, yêu dân tộc tôi. Tôi không hề chống dân tộc tôi, tôi chỉ chống đảng cộng sản. Mà chống đảng thì không phải là tội".

Nguyễn Phương Uyên và Đinh Nguyên Kha không khuất phục. Chuyện “thú tội”, “xin khoan hồng” chỉ mới vài năm trước đây nhưng như đã thuộc vào quá khứ xa xôi, một thời kỳ còn chập chững đấu tranh, một phương pháp nay đã lỗi thời. Tranh đấu cho quyền lợi của dân tộc là một tự nguyện phát xuất từ trái tim và lòng yêu nước. Không ai bắt các em phải làm những việc các em không chọn lựa. Nhịp đập chân thành của con tim và tiếng gọi thiêng liêng của lòng yêu nước không cho phép một người gập đầu “xin khoan hồng”, “thú tội” dù chỉ là một hình thức trá hàng. Bảo vệ tổ quốc là một niềm vui, niềm hãnh diện. Nếu đã chọn hy sinh phải hy sinh cho trọn vẹn với lý tưởng của đời mình.

Tình yêu nước trong lòng Nguyễn Phương Uyên và Đinh Nguyên Kha vô cùng trong sáng. Không giống Nguyễn Thị Minh Khai trước giờ bị xử tử hô lớn “Đảng Cộng sản Việt Nam muôn năm!” để thể hiện tinh thần bất khuất, kiên trung của bà ta đối với đảng, hay Lê Hồng Phong, trong lời trăn trối cuối cùng ngoài Côn Đảo chỉ nguyện trung thành với đảng, Phương Uyên và Nguyên Kha chỉ nghĩ đến những bà mẹ Việt Nam đang buôn tảo bán tần, nghĩ đến các em thơ đang lây lất trên đường phố, nghĩ đến máu các chú bác đã đổ xuống ở Hoàng Sa, nghĩ đến nắm xương của các chú bác đã thành cọc cắm lên hải đảo Trường Sa..."

Trong bài tiểu luận khác: "Trách nhiệm của các thế hệ Việt Nam", xin trích đoạn:

"Đảng Cộng sản thắng trong chiến tranh không phải vì họ có chính nghĩa, mà bởi vì họ đã kiên trì với mục đích nhuộm đỏ Việt Nam, được tổ chức một cách tinh vi từ trung ương Đảng cho đến tận tổ ba người và khai thác triệt để lòng yêu nước sâu đậm của người dân Việt Nam. Tôi cũng có một niềm tin rằng dân tộc Việt Nam với mật độ dân số trung bình không quá đông hay quá ít, với nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, với lực lượng chuyên viên đông đảo trong các ngành khoa học đang có mặt trên khắp thế giới, với truyền thống yêu nước Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa vẫn chảy đầy trong huyết quản, nếu được chắp đôi cánh tự do, dân chủ, nhân bản, Việt Nam sẽ bay lên cao, sẽ thật sự trở thành một cường quốc kinh tế, cường quốc quân sự, sẽ đủ khả năng bảo vệ sự toàn vẹn vùng trời, vùng biển của tổ quốc thiêng liêng. Nếu không có tự do dân chủ, “khát vọng cất cánh” mà anh Tô Nhuận Vỹ nêu ra trong phần đầu tiểu luận chỉ là một giấc mơ tiên.

Có người cho rằng Đảng Cộng sản đã có một thời đồng hành với dân tộc, cùng hướng đến một mục tiêu như dân tộc Việt Nam, do đó vai trò lãnh đạo của Đảng ngày nay là hệ quả tất yếu của lịch sử. Tôi không đồng ý. Đó là lý luận của kẻ cướp. Với tôi, rất nhiều đảng viên Đảng Cộng sản tham gia chống Pháp phát xuất từ lòng yêu nước và đã chết cho đất nước như tôi đã nhiều lần viết trên diễn đàn này, nhưng bản thân Đảng Cộng sản như một tổ chức chính trị chưa bao giờ đồng hành với dân tộc. Việc giành lại nền độc lập và chủ quyền đất nước từ tay thực dân là mục tiêu, là bến bờ của dân tộc Việt Nam, trong khi đó đối với Đảng Cộng sản, độc lập dân tộc chỉ là phương tiện, một chiếc cầu, một chiếc ghe họ cần có để đi qua trên đường tiến tới cách mạng vô sản. Mục tiêu đó đã được khẳng định ngay trong “Luận cương chính trị” Đại hội Đảng Cộng sản Đông Dương do Trần Phú chủ trì năm 1930 và được Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương phê chuẩn vào tháng 4 cùng năm:”Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản trong cuộc cách mạng; hai giai đoạn cách mạng từ cách mạng tư sản dân quyền chống đế quốc và phong kiến nhằm thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và người cày có ruộng và sau đó chuyển sang làm cách mạng xã hội chủ nghĩa.” 
  
Trần Trung Đạo là ngòi bút đấu tranh cho những giá trị đích thực dân chủ tự do, nét bút uyên thâm sâu sắc, ôn hòa, không sắt máu:

"Sau 1975, một số người từng xếp bút nghiên vào rừng “Chống Mỹ cứu nước” đã phẫn nộ, kết án giới lãnh đạo Đảng đi ngược lại quyền lợi dân tộc, phản bội lý tưởng, phản bội máu xương của đồng chí họ, đưa đất nước đi vào con đường nghèo đói, độc tài, đảng trị. Nghĩ cho đúng, đó là những lời kết án thiếu cơ sở lý luận lẫn thực tế. Thật là oan cho Đảng. Nếu họ chịu khó đọc các đề cương chính trị đại hội Đảng từ ngày thành lập 78 năm trước cho đến đại hội lần thứ X cách đây hai năm, sẽ thấy Đảng Cộng sản chưa bao giờ phản bội mục tiêu của mình. Mục tiêu cộng sản hóa toàn cõi Việt Nam và đặt dân tộc Việt Nam dưới quyền cai trị tuyệt đối của Đảng chưa bao giờ thay đổi. Vì một số điều kiện cách mạng và biến chuyển chính trị thế giới xảy ra ngoài tiên liệu, các chính sách của Đảng cũng phải theo đó mà áp dụng một cách thích nghi hơn, mềm dẻo hơn qua những chính sách gọi là “đổi mới”, “hội nhập” v.v…, nhưng mục đích của Đảng từ trước đến sau luôn nhất quán..." 


Trong tình bạn với Trần Trung Đạo, tôi mến anh như người bạn hòa nhã, dung dị, cởi mở, nhất là bản tính cùng tư tưởng yêu nước, tôi hàm ý nước Việt Nam Cộng Hòa, và chúng tôi chia chung cùng một tôn giáo. Ngày được tin Linh mục Trần Cao Tường đã từ trần vào Chúa Nhật 21.11.2010. Cha André Dũng Lạc Trần Cao Tường (Ngài là nhà văn quán xuyến website văn học Dũng Lạc) cả hai chúng tôi viết bài về Cha André Tường khi Ngài ra đi bất chợt. Trần Trung Đạo viết bài tiễn đưa: "Linh mục Trần Cao Tường, từ đồi Massada đến bờ sông Hát", bài viết cảm động. Xin trích đoạn:

"Một ngày nọ của gần mười năm trước, tôi nhận một email của một vị linh mục nhận xét về thơ văn của tôi mà ngài đọc được trên internet. Email của linh mục nhắc đến một bài thơ và một tâm bút của tôi. Bài thơ viết về ngôi chùa Viên Giác, nơi tôi sống trong những ngày còn nhỏ ở Hội An và bài tâm bút viết về một nhà thờ Công Giáo ở quê tôi, nhà thờ Trà Kiệu. Phía dưới của email có một nội dung rất đậm đà tình cảm là một tên rất đẹp kèm theo số điện thoại: Trần Cao Tường.

Tôi gọi lại ngay nhưng không có tiếng trả lời nên chỉ biết để lại lời cám ơn các nhận xét của Cha. Buổi chiều, Cha gọi lại. Chúng tôi nói chuyện với nhau lần đầu nhưng tự nhiên dường như đã quen thân nhau từ lâu lắm. Tôi “Thưa Cha” và xưng con theo đúng lễ nghi tôn giáo như tôi vẫn thường “Bạch Thầy” và xưng con với các thầy bên Phật Giáo. Cha Trần Cao Tường bảo “gọi nhau là anh em đi vì chúng ta cùng họ Trần cả”. Tôi không chịu và đề nghị Cha đừng để ý đến chuyện “Cha con” mà hãy xem đó như một phần của đạo đức Việt Nam. Cha không nói thêm gì nữa. Cả tôi và Cha đều thuộc mẫu người nói rất thoải mái. Chúng tôi nói chuyện suốt giờ về mọi vấn đề trong đời sống, từ chính trị đến tôn giáo, từ thơ văn đến nhiếp ảnh và cũng nói khá lâu về internet. Ngoại trừ môn internet tôi giỏi hơn Cha, bộ môn nào Cha cũng rất uyên bác và sở hữu một hiểu biết bao la, vượt xa những kiến thức còn rất giới hạn của tôi.

Thời gian ngắn sau đó Cha Trần Cao Tường gởi tặng tôi các tác phẩm đã in của ngài. Ngoài các tác phẩm thần học, Cha viết nhiều tác phẩm có tựa đề rất nhẹ nhàng nhưng chuyên chở những nội dung giáo dục và đạo đức rất sâu sắc không chỉ dành riêng cho độc giả Công Giáo mà cho mọi người như Suối Nguồn Tình Yêu, Đi Tìm Nét Văn Hóa Việt, Vũ Khúc Thăng Ca, Nhịp Múa Sông Thanh, Khúc Sáo Ân Tình v.v.. Mỗi khi có dịp thưa chuyện với Cha cũng là lúc tôi học được thêm nhiều điều mới lạ. Tôi giới thiệu Cha với nhiều văn nghệ sĩ thân hữu ở California, Texas v.v.. và ai cũng quý mến Cha." 

Linh mục Trần Cao Tường mà tôi vẫn nghe tiếng lòng của Ngài đã một thời chia sẻ rằng Ngài quý mến Trần Trung Đạo và tôi, ngài biết cả hai chúng tôi đều là phật tử, nhưng ngài không thấy sự cách biệt tôn giáo với hai chúng tôi. Tôi cảm mến và cám ơn Ngài cho chúng tôi những cảm nghĩ tốt đẹp như vậy. Tôi xin gửi tư tưởng của Cha Tường nhân dịp này đến Đạo vậy.

Nói đến  Trần Trung Đạo, không thể bỏ qua lãnh vực thi ca, tôi như nhiều người vốn thích bài thơ bất hủ "Đổi Cả Thiên Thu Tiếng Mẹ Cười", thơ được nhạc sĩ Võ Tá Hân phổ thành nhạc. Một bài ca nhạc về người mẹ tiêu biểu ngợi ca bóng hình người mẹ bao la. Đạo viết về mẹ anh trong trân quý, trong cảm động tràn dâng:

"Mẹ là biểu tượng trọn vẹn và tuyết đối của tinh thần Chân Thiện Mỹ. Nếu có một người để chúng ta có thể san sẻ những điều thầm kín, riêng tư nhất, thì người đó phải là mẹ. Nếu có một người có thể tha thứ cho chúng ta dù phạm phải bất cứ một lỗi lầm gì, người đó sẽ là người mẹ. Tôi tin, nếu chúng ta biết dành ý nghĩ đầu tiên của một ngày, thay vì để nghĩ đến chuyện hơn thua, danh lợi nhưng là để nghĩ về mẹ, nghĩ về khuôn mặt của mẹ, tiếng cười của mẹ, lời dặn dò của mẹ hay thậm chí chỉ để gọi tiếng mẹ thôi, chúng ta sẽ có một ngày an lành và hạnh phúc."

Bạn bè của Đạo biết bà mẹ Hòa Hưng là mẹ nuôi, nhưng trong cái tâm đạo của người con, Đạo rất quý bà như mẹ ruột.

"Tôi nhớ đến mẹ, người mẹ Hòa Hưng vất vả nuôi nấng bảy đứa con, trong đó tôi là con lớn nhất, trong một hoàn cảnh hết sức khó khăn. Mẹ tôi bán bánh bèo ở đầu đường để nuôi chúng tôi ăn học. Mẹ tôi tình nguyện đi kinh tế mới ở Sông Bé để các em tôi còn được phép ở lại Sài Gòn học hết bậc phổ thông. Mẹ tôi đi mót lúa, mót khoai gởi về nuôi nấng chúng tôi trong những ngày đói khổ.

Thơ gửi mẹ:

“Nhấc chiếc phone lên bỗng lặng người
Tiếng ai như tiếng lá thu rơi
Mười năm mẹ nhỉ, mười năm lẻ
Chỉ biết âm thầm thương nhớ thôi ..

Nhấc chiếc phone lên bỗng lặng người
Giọng buồn hơn cả tiếng mưa rơi
Ví mà tôi đổi thời gian được
Ðổi cả thiên thu tiếng mẹ cười...”

Tôi kính yêu mẹ. Mẹ Hòa Hưng là người săn sóc tôi trong những tháng ngày khó khăn nhất của tôi và người đã thôi thúc tôi viết nên bài thơ Đổi Cả Thiên Thu Tiếng Mẹ Cười trong đêm mưa hơn mười năm trước. Tuy nhiên, mẹ của Đổi Cả Thiên Thu Tiếng Mẹ Cười không phải là người đã mang tôi vào cuộc đời này."

Đạo là người con hiếu thảo, vẹn tròn đạo đức. Đạo đức vốn dĩ là sức mạnh của tâm hồn. Anh kể về mẹ ruột của mình, bóng người mẹ mà anh không thể hình dung ra được, bởi vì:

"Người mẹ sinh ra tôi đã chết khi tôi còn rất nhỏ. Nhỏ đến nỗi tôi gần như không biết mặt mẹ mình. Trong tuần hoàn của vũ trụ, giọt nước còn biết mẹ mình là mây, chiếc lá còn biết mẹ mình là cây, còn tôi thì không. Tôi là đứa bé cô độc, một con người cô độc, không anh em, không chị em. Tôi lớn lên một mình với cha tôi trong cảnh gà trống nuôi con trong căn nhà tranh nhỏ ở làng Mã Châu, quận Duy Xuyên." 

Tôi có viết bài về Đạo, chia sẻ nỗi cảm thông với anh:

"Đại thi hào Nga Aleksandr Sergeyevich Pushkin là người có những đóng góp to lớn trong việc phát triển ngôn ngữ văn học Nga hiện đại và toàn châu Âu. Ông mất khi mới 37 tuổi nhưng đã để lại nhiều kiệt tác như "Evgeny Onegin", "Con gái viên đại úy", "Con đầm pích", "Boris Godunov",... Ông được coi là biểu tượng của dòng văn học lãng mạn và tả chân của nước Nga và châu Âu thế kỷ 19. Pushkin làm thơ gửi mẹ nuôi mà ông thương, kính trọng như nhũ mẫu của mình:

Mẹ thân thiết trong những ngày cơ cực
Nguồn mến thương nâng bước đời con!
Rừng thông thăm thẳm cô đơn
Ngóng con ngày tháng mỏi mòn mẹ trông
Trong phòng khách bên song cửa sổ
Như người canh, thương nhớ mênh mang
Tay già lần mũi kim đan,
Như đang đếm bước thời gian chậm buồn
Mẹ thẫn thờ nhìn đường thăm thẳm
Lối cổng vào bỏ vắng từ lâu
Buồn thương, linh cảm, lo âu
Lại càng chất nặng thắt đau ngực già...
(Gửi mẹ nuôi - Thúy Toàn dịch từ Nga ngữ)

Tôi nghĩ từ Aleksandr Sergeyevich Pushkin đến Trần Trung Đạo đều có mẫu số chung, dù dưỡng mẫu hay nhũ mẫu, hai nhà thơ đã dành những tâm tư trang trọng nhất cho 2 mẫu người mẹ trong văn học, thực vậy từ Âu sang Á, sự xúc cảm về mẹ cho văn chương mẹ mãi mãi thăng hoa."

Ngày được tin bà mẹ Hòa Hưng của Trần Trung Ðạo đã ra đi khỏi cuộc đời này. Nhiều bạn bè chia sẻ cùng Đạo trong dịp bà mẹ Hòa Hưng đã mệnh chung trong thanh thản, nhẹ nhàng. Tên thật của bà là Phan Thị Diên, Pháp danh Diệu Hồng, sinh năm 1924 và qua đời ngày 21 tháng 12 năm 2014 tại Hòa Hưng, Sài Gòn, hưởng thượng thọ 91 tuổi.

Bài thơ bi ai cảm động khác Đạo sáng tác tôi thích là Người Lính Già Vừa Chết Đêm Qua.

Người lính già Việt Nam
Vừa mới chết đêm qua
Trên đường phố San Jose bụi bặm
Anh đã đi bao nhiêu nghìn dặm
Ðến nơi đây chỉ để chết âm thầm
Không một phát súng chào
Không cả một người thân
Không ai nói với anh một lời tiễn biệt...

Tôi gởi anh đôi dòng thơ
Từ trái tim của một thằng em nhỏ
Cũng lạc loài lưu lạc như anh
Chúng ta, hai chiếc lá chung cành
Bay phơ phất trước từng cơn bão tố
Ngủ đi anh bình yên nơi chín suối
Ðau thương nầy em sẽ viết thay anh..."

Trần Trung Ðạo còn có bài thơ về tình bạn, Những Người Bạn Tôi Chưa Hề Quen:

Cũng như anh, tôi ngàn đêm thao thức
Hãi hùng mơ chung một giấc chiêm bao
Có tiếng quân reo, ngựa hí, kêu gào
Tiếng xích khua vang, tiếng người rên siết
Cũng như anh, tôi đôi lần ra biển
Hướng về Nam mây trắng một màu tang
Có ai về xoay ngược bánh thời gian
Cho tôi nhặt những mảnh đời đã mất...

Trong thơ tôi mùa Xuân chim không hót
Thu không vàng, Hạ chẳng để yêu đương
Thơ của tôi là máu rỉ trăm đường
Là u uất đã chìm sâu trong đất

Cũng như anh, tôi mười năm đất khách
Có gì vui đời một kẻ lưu vong
Khi tôi chết nấm mồ hoang cỏ mọc
Đã làm gì để lại với non sông ?"

Trần Trung Đạo suy tư trăn trở về quê hương, cách xa Sài Gòn khoảng mười hai ngàn dặm, anh làm bài thơ Ở Một Nơi Không Có Mùa Xuân:

Ở một nơi không có mùa xuân
Chim chóc cũng chẳng buồn về đậu
Ngày hai buổi em về qua xóm lạ
Buồn vương trên tóc nhớ theo chân

Nắng Sài Gòn từng giọt rưng rưng
Thời con gái tan theo từng giọt nắng
Anh ra đi phố phường xưa hoang vắng
Tháng năm buồn kỷ niệm ngủ không yên...

Vầng trăng ước trong lòng em vẫn sáng
Mười năm chờ nghe một tiếng thương yêu
Em nối tình mình theo mũi chỉ đường kim
Ðan chiếc áo cho ngày anh trở lại
Nhưng bóng hạc vẫn nghìn trùng bay mãi
Ðể giang hà mòn mỏi tiếng thông reo.

Ði đi anh đừng trở lại đây
Em sẽ khóc nhưng không hề nuối tiếc
Chỉ tội nghiệp cho anh một đời thua thiệt
Gian khổ tù đày để được thế thôi sao?"

Trần Trung Đạo vượt biên bằng đường biển, bỏ phiếu cho chế độ Cộng Sản bằng chân, văn thơ của anh ngậm ngùi cho quê hương Việt Nam, nhưng rất cứng rắn với người Cộng Sản.

Tập sách 600 trang, Chính Luận trình bày những ý tưởng gắn bó với dân tộc Việt Nam, vạch trần những sai trái, những tội ác của ác đảng Cộng Sản Việt Nam, cũng như quân Tàu Cộng Bắc phương, quan điểm anh trình bày bằng văn phong ôn hòa, có những bài viết tâm bút hay những bài thơ mang nỗi xót xa của người dân Việt bị cầm tù tại quê hương. Tôi tham dự buổi ca nhạc của nhạc sĩ Phạn Văn Hưng tại Little Sài Gòn ngày 12/10/2008, Phạn Văn Hưng hát cho dân tộc Việt Nam trong khát vọng tự do dân chủ, cho người dân hiền hòa bị chế độ Cộng Sản ngược đãi, chà đạp nhân quyền. Buổi ca nhạc đó có bài ca bi ai lắm, bài Em Bé Việt Nam Và Viên Sỏi, phổ thơ của Trần Trung Đạo, kể chuyện bất hạnh của cháu bé trong chuyến vượt biên buồn thảm, cha mẹ mất, cháu bơ vơ. Lời thơ ai oán của chuyến vượt biến vượt biển trốn chạy chế độ Cộng Sản, trích dẫn:

Bên bờ biển Palawan
Có một em bé gái
Tuổi mới chừng lên sáu lên năm
Ðang ngồi đếm từng viên sỏi nhỏ
Và nói chuyện một mình
Như nói với xa xăm.

- Em đến từ Việt Nam
Câu trả lời thường xuyên và duy nhất
Hai tiếng rất đơn sơ mà nhiều người quên mất
Chỉ hai tiếng nầy thôi
Em nhớ kỹ trong lòng
Em chỉ ra ngoài Ðông Hải mênh mông
Cho tất cả những câu hỏi khác

Mẹ em đâu?
- Ngủ ngoài biển cả.

Em của em đâu?
- Sóng cuốn đi rồi.

Chị của em đâu?
- Nghe chị thét trên mui.

Ba em đâu?
Em lắc đầu không nói.

- Bé thức dậy thì chẳng còn ai nữa

Chiếc ghe nhỏ vớt vào đây mấy bữa
Trên ghe sót lại chỉ dăm người
Lạ lùng thay một em bé mồ côi
Ðã sống sót sau sáu tuần trên biển...

Đôi dòng tiểu sử về Trần Trung Ðạo, quê quán ở làng Nghi Hạ, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam. Anh theo học phổ thông tại các trường trung học Duy Xuyên, trung học Trần Quý Cáp tại Hội An. Cựu sinh viên Kinh tế và Luật tại Đại học Vạn Hạnh, Sài Gòn.

Trần Trung Đạo vượt biên bằng đường biển năm 1981, tạm trú tại trại Palawan rồi sang định cư tại Hoa Kỳ. Anh theo học ngành điện toán tại các trường Wentworth Institute of Technology và Boston University rồi làm kỹ sư điện toán cho một công ty đầu tư tài chính tại Boston.

Trần Trung Đạo làm thơ từ thời còn ở Việt Nam. Tại Hoa Kỳ ông bắt đầu tham gia các sinh hoạt văn hóa, tuổi trẻ trong mạng lưới Internet từ cuối thập niên 80.

Đạo có nhiều đóng góp vào nỗ lực xây dựng các phong trào trẻ tại hải ngoại từ đầu thập niên 90 đến nay và thường xuyên tham gia thuyết trình về các chủ đề tuổi trẻ tại các cộng đồng Việt Nam, các hội nghị nhân quyền, tại các đại học, tổng hội sinh viên, trại hè sinh viên.

Tác phẩm anh xuất bản:
Giấc mơ Việt Nam (văn)
Ðổi cả thiên thu tiếng mẹ cười (tập thơ)
Thao thức (tập thơ)
Thơ Trần Trung Đạo (tập thơ)
Tâm bút Trần Trung Đạo (văn)
Mao Trạch Đông, cuộc đời chính trị và tình dục (lược dịch)
Chính luận Trần Trung Đạo (văn,  Nhà xuất bản Cổ Loa,  2014)

Trong tiểu luận của Trần Trung Đạo về Giấc Mơ Việt Nam, trích dẫn tiêu biểu:

"Câu chuyện thành công của nước Mỹ, đúng như Roger Rosenblatt viết, đã bắt đầu từ một giấc mơ chung: Giấc Mơ Người Mỹ hay American Dream như chúng ta thường nghe gọi bằng tiếng Anh. American Dream được định nghĩa trong tự điển Wordsmyth như là “một lý tưởng của người Mỹ, nhờ đó, con người nhận được sự giàu có vật chất, bình đẳng, tự do, và các giá trị tương tự (the American ideal that any man or woman may obtain material wealth, equality, freedom, and the like)”.

American Dream đã giúp nhân dân Mỹ chiến thắng đạo quân tinh nhuệ của Anh Hoàng George III trong cuộc chiến tranh giành độc lập (1775-1783), đã giúp nhân dân Mỹ vượt qua những bất đồng kinh tế chính trị sâu sắc trong thời kỳ chiến tranh nội chiến (1860-1865), đã giúp đưa nước Mỹ trở nên quốc gia có lợi nhất sau cả hai cuộc chiến tranh thế giới.

American Dream là giấc mơ mà những người cha sáng lập của quốc gia Hoa Kỳ từng ôm ấp và theo đuổi: Tự Do, Dân Chủ và Cường Thịnh. Tổng Thống đầu tiên George Washington đã từng dặn dò: “Tôi mong được thấy Hoa Kỳ mãi mãi là đất nước của tự do và công lý”. Tượng đài kỷ niệm Tổng Thống George Washington được kiến trúc dựa theo tinh thần độc lập, tự chủ và vươn lên đó.

American Dream là giấc mơ bình đẳng mà Mục Sư Martin Luther King đã đọc trên thềm đài kỷ niệm Lincoln ngày 28 tháng 8 năm 1963: “Tôi mơ một ngày, trên đồi Georgia, con cháu của những người nô lệ cũ, và con cháu của những chủ nô cũ, ngồi lại với chung một bàn trong tình huynh đệ...Tôi mơ một ngày, bốn người con của tôi sẽ được sống trong một đất nước, nơi đó, chúng sẽ không bị phán xét do màu da mà chính bằng tư cách riêng của chúng”.

American Dream, qua nhiều thời đại, từ những người trên chiếc tàu Mayflower cho đến hôm nay, đã được làm phong phú thêm để trở thành một bản sắc văn hóa, một truyền thống đặc biệt của quốc gia này.

Trở về với lịch sử Việt Nam, tổ tiên chúng ta, ông bà chúng ta đã bao giờ mơ và theo đuổi Giấc Mơ Việt Nam chưa?...

Giấc Mơ Việt Nam là giấc mơ của những bàn tay khối óc xây dựng nên nền văn hóa Đông Sơn, bắt đầu từ hàng ngàn năm trước, trải dài đến thời điểm cực thịnh vào thế kỷ thứ 5 trước Công Nguyên. Những chiếc trống đồng Đông Sơn, Ngọc Lữ được chạm trổ tinh vi đánh dấu một thời đại vàng son trong tiến trình phát triển văn minh nhân loại. Những cổ vật quý giá đó, không phải chỉ là những biểu tượng cho văn minh dân tộc chúng ta mà còn đại diện cho cả nền văn minh vùng Nam Á đương thời. Chính tinh thần văn hóa Hòa Bình, Đông Sơn đã hun đúc thành sức mạnh dân tộc, để các thế kỷ sau đó, đủ sức đối kháng với sự xâm lăng thô bạo của các nguồn văn hóa mang ý đồ đồng hóa phát xuất từ phương Bắc.

Thật vậy, mặc dù hơn một ngàn năm trong bóng đêm nô lệ nhà Hán, nhà Ngô, nhà Đường với bao nhiêu cực hình đày đọa, sáng xuống bể tìm ngọc châu, chiều lên non săn ngà voi, trầm hương, châu báu, dân tộc Việt vẫn bảo vệ được tính độc lập, vẫn giữ được bản sắc văn hóa Việt trong sáng và thuần nhất. Đất nước chúng ta đã hơn một lần bị mất đi và giành lại được nhưng chúng ta hãnh diện nói lớn rằng dân tộc Việt Nam chưa bao giờ bị mất gốc. Hiếm có trên một đất nước nào, ở đó, tên của một con sông, một ngọn núi, một thôn làng, cũng có thể làm cho người dân khi nhắc đến phải rơi nước mắt. Những Phong Hóa, Nam Quan, Mê Linh, Bạch Đằng, Vạn Kiếp, Thiên Trường, Diên Hồng, Chi Lăng, Lam Sơn, Đống Đa, v.v... không phải chỉ đơn giản là những địa danh lịch sử, mà hơn thế nữa, còn là là nơi giữ gìn anh linh hùng khí của dân tộc chúng ta. Hình ảnh những chiếc búa, những chiếc rìu, những mũi thương, mũi đao, mũi tên bằng đồng đào được ở vùng Trung Châu, Bắc Việt, ở Sông Bạch Đằng, dọc Ải Nam Quan không chỉ là những cổ vật mà còn là chứng tích của bao nhiêu trận mạc, bao nhiêu cuộc chiến đấu, bao nhiêu máu xương và nước mắt của tổ tiên Lạc Việt đã đổ xuống trước áp lực của các triều đại Bắc phương xâm lấn khác.

Giấc Mơ Việt Nam là giấc mơ của hai người phụ nữ Việt đất Mê Linh uy danh lừng lẫy, đã can đảm thắp lên ngọn lửa tự do cho dân tộc. Một ngàn năm trăm năm trước Jeanne d'Arc, người phụ nữ Pháp lãnh đạo cuộc khởi nghĩa chống ách cai trị của người Anh, tại vùng Đông Á đã có hai người phụ nữ Lạc Việt, Trưng Trắc và Trưng Nhị phất cờ khởi nghĩa chống nhà Hán và lập nên một triều đại huy hoàng. Dù chỉ trị vì được 3 năm, tinh thần “giặc đến nhà đàn bà phải đánh” của hai bà đã trở thành truyền thống yêu nước tồn tại đến ngày nay.

Giấc Mơ Việt Nam là giấc mơ của các bô lão được Vua Trần Thánh Tông triệu đến Điện Diên Hồng để hỏi ý trước cuộc xâm lăng của đại quân Mông Cổ vào tháng Chạp năm 1284. Lần đầu tiên trong lịch sử, sức mạnh dân tộc Việt thể hiện không chỉ bằng lòng yêu nước nhưng còn bằng tinh thần dân chủ. Chính sức mạnh tổng hợp vô địch của lòng yêu nước và tinh thần dân chủ đã đẩy lui bao nhiêu vạn hùng binh Mông Cổ trong ba cuộc chiến chống quân Nguyên lừng lẫy. Thượng Hoàng Trần Thánh Tông đã cảm khái sau cuộc kháng Nguyên lần thứ hai:

Xã tắc hai phen bon ngựa đá
Non sông muôn thưở vững âu vàng

Giấc Mơ Việt Nam là giấc mơ của Bình Định Vương Lê Lợi sau ba lần tổn thất phải lui về tử thủ Chí Linh. Quân kháng chiến đã phải đào củ chuối, giết ngựa chiến mà ăn. Suốt mười năm nằm gai nếm mật đầy hy sinh gian khổ, khi hòa khi chiến, lúc cương lúc nhu, tổ tiên chúng ta trong thời đại nhà Lê cuối cùng đã giữ được Giấc Mơ Việt Nam còn sống. Nguyễn Trãi đã kết luận trong Bình Ngô Đại Cáo: “Xã tắc từ đây vững bền, giang sơn từ đây đổi mới, càn khôn bĩ rồi lại thái, nhật nguyệt hối rồi lại minh, ngàn năm vết nhục nhã sạch làu, muôn thuở nền thái bình vững chắc, âu cũng nhờ trời đất tổ tông linh thiêng đã lặng thầm phù trợ”. Sử gia Phạm Văn Sơn trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư đã nhận xét về Giấc Mơ Việt Nam: “Và cũng có thể nói rằng những cuộc hưng vong thê thảm này đã hun đúc cho dân tộc chúng ta một tinh thần tranh đấu bền bỉ, để tồn tại đến ngày nay, oanh liệt dưới vòm trời Đông Nam Á”...."

Bài viết này xin kết thúc bằng “Giấc Mơ Việt Nam” của Trần Trung Đạo đã đưa ra hình ảnh tiêu biểu của được giấc mơ Việt Nam: Nếu nước Hoa Kỳ được thành lập từ những giấc mơ của người dân các nơi đến đây đóng góp và xây dựng, và những giấc mơ đó đã được thực hiện hoàn mỹ tạo đất nước này thành công để là một quốc gia vĩ đại, thật sự  hùng mạnh và phú cường.

Nếu giấc mơ của Tổng thống đầu tiên Hoa Kỳ George Washington mơ rằng: ”Tôi mong được thấy Hoa Kỳ mãi mãi là đất nước của tự do và công lý”, để rồi nước này thành công vĩ đại vì bởi những giá trị của sự tự do, công bình, dân chủ và nhân quyền.

Nếu giấc mơ về công bình xã hội của Mục sư Martin Luther King rằng: “Tôi mơ một ngày, trên đồi Georgia, con cháu của những người nô lệ cũ, ngồi lại chung một bàn trong tình huynh đệ... Tôi mơ một ngày, bốn người con của tôi sẽ được sống trong một đất nước, nơi đó, chúng sẽ không bị phán xét do màu da mà chính bằng tư cách riêng tư của chúng”, xứ Mỹ này đã có những đạo luật công bình hơn để chận đứng các sự kỳ thị trong xã hội.


Xin Đấng tạo hóa trên cao phù trợ cho giấc mơ Việt Nam của Trần Trung Đạo được như giấc mơ Hoa Kỳ để Việt Nam ta sớm có được tự do, dân chủ và nhân quyền, để Việt Nam ta sớm có được hùng mạnh và phú cường, và để Việt Nam ta sớm có được sự bình đẳng, không bị kỳ thị "hồng hơn chuyên", bị kỳ thị chênh lệch xã hội do quyền thế lãnh đạo, do tham quyền nhũng lạm.

Sau cùng, lời riêng xin chúc mừng Trần Trung Đạo mang tác phẩm "Chính Luận" về Nam Cali được đón nhận nồng nhiệt.

Trần Việt Hải
Los Angeles, 15/01/2015